Đa phần phát hiện muộn
Ung thư phổi là căn bệnh đứng thứ 2 về tỷ lệ mắc mới tại Việt Nam. Mỗi năm nước ta ghi nhận khoảng 26.000 ca mắc mới ung thư phổi, 23.000 trường hợp tử vong.
TS.BS Nguyễn Khắc Kiểm, Phó Giám đốc Trung tâm Phẫu thuật nội soi Robot, Trưởng khoa Ngoại lồng ngực, Bệnh viện K cho biết, ung thư phổi diễn biến rất âm thầm, rất khó phát hiện sớm do dấu hiệu khởi phát nghèo nàn, chụp X-quang thường không phát hiện được khối u kích cỡ nhỏ.
Ho là dấu hiệu gặp trong ung thư phổi nhưng ho cũng biểu hiện rất nhiều bệnh lý khác. Nên nếu xuất hiện ho nhiều, ho ra máu, đau đầu, đau ngực, thỉnh thoảng bị co giật, đặc biệt giảm cân rất nhanh là những dấu hiệu báo động đỏ của tình trạng ung thư phổi.
Có những bệnh nhân ho ra máu, đau ngực kèm sút cân nhanh, khi đến viện chụp X-quang thông thường, khối u đã to 2-10cm.
Theo thống kê, ngay tại các nước phát triển, chỉ có khoảng 25% bệnh nhân ung thư phổi được chẩn đoán ở giai đoạn sớm (giai đoạn 1, 2). Tại Việt Nam, ung thư phổi đứng thứ hai về số ca mắc và tử vong, nhưng trên 75% bệnh nhân đến viện ở giai đoạn muộn.
Tại Bệnh viện K, hàng nghìn bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi mỗi năm. Tuy nhiên, có đến 70-80% số bệnh nhân tại thời điểm chẩn đoán không có chỉ định điều trị triệt căn do phát hiện ở giai đoạn muộn.
Có nhiều tác nhân làm tăng nguy cơ ung thư phổi, tuy nhiên khoảng 90% bệnh nhân là do hút thuốc lá hoặc tiếp xúc với khói thuốc (hút thuốc lá bị động) trong thời gian dài.
Người hút thuốc tăng nguy cơ ung thư phổi gấp từ 15 đến 30 lần so với người không hút. Khi tiếp xúc với khói thuốc thụ động cũng tăng nguy cơ mắc ung thư phổi lên 20-30%.
Phát hiện sớm có ý nghĩa như thế nào trong điều trị?
TS Kiểm cho biết, bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn sớm được điều trị triệt căn thì chi phí điều trị sẽ rất thấp và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân có thể trở lại bình thường.
Còn với bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn tiến triển và giai đoạn muộn, mặc dù hiện nay có nhiều liệu pháp mới cho thấy hiệu quả điều trị trên nhóm bệnh nhân này nhưng chi phí điều trị lớn là rào cản khiến đại đa số bệnh nhân không thể tiếp cận các phương pháp tiến bộ như điều trị nhắm đích hay điều trị miễn dịch.
Vì thế, phát hiện sớm ung thư phổi rất có ý nghĩa trong điều trị.
Để phòng ngừa ung thư phổi, chuyên gia kêu gọi người dân từ bỏ thuốc lá (gồm cả thuốc lá truyền thống, thuốc lá điện tử), thực hiện tầm soát ung thư phổi định kỳ, vận động đều đặn, dinh dưỡng hợp lý.
Để sàng lọc, phát hiện sớm ung thư phổi, nhóm người có nguy cơ cao thường được chỉ định chụp cắt lớp vi tính đa dãy liều thấp (low-dose CT scan).
Theo đó, những người ở lứa tuổi 55-74, có thể trạng tốt và đang hút thuốc lá (hoặc mới bỏ thuốc lá chưa đến 15 năm) và tiền sử hút thuốc lá lâu năm, tần suất lặp lại nhiều như 1 bao/ngày thuộc nhóm đối tượng nguy cơ cao, được khuyến khích tầm soát ung thư phổi bằng chụp CT liều thấp.
Những biểu hiện ban đầu cảnh báo ung thư phổi:
– Ho kéo dài
Bệnh nhân ho kéo dài, điều trị mãi không dứt, có thể ho có đờm hoặc máu.
Ngoài ra, bệnh nhân có biểu hiện đau ngực trầm trọng hơn khi thở sâu, cười hoặc ho.
– Khàn tiếng
– Hụt hơi
– Thở khò khè
– Suy nhược và mệt mỏi
– Chán ăn dẫn đến sụt cân.
– Ở giai đoạn đầu, người bệnh cũng có thể bị nhiễm trùng đường hô hấp tái phát như viêm phổi hoặc viêm phế quản kèm theo. Khi khối u lan rộng, một loạt triệu chứng khác sẽ xuất hiện, phụ thuộc vào vị trí khối u mới hình thành.
Cụ thể, nếu khối u xuất hiện ở hạch bạch huyết, người bệnh có hiện tượng nổi u, đặc biệt ở cổ hoặc xương đòn.
Nếu khối u xuất hiện ở xương, người bệnh cảm thấy đau xương, nhất là ở lưng, xương sườn hoặc hông.
Khối u xuất hiện ở não hoặc cột sống, người bệnh có thể có biểu hiện nhức đầu, chóng mặt, dễ mất thăng bằng hoặc tê tay/chân.
Khối u ở thực quản gây khó nuốt.
Khối u ở gan gây biểu hiện vàng da và mắt.
Các khối u xuất hiện trên đỉnh phổi có thể gây ảnh hưởng đến các dây thần kinh ở mặt, dẫn đến tình trạng sụp mí mắt, đồng tử nhỏ, không đổ mồ hôi ở một bên mặt, đau nhức vai.
Ngoài ra, đôi lúc tế bào ung thư phổi còn khiến cơ thể tạo ra một chất tương tự như hormone, gây nên một loạt triệu chứng gọi là hội chứng paraneoplastic, gồm: Yếu cơ; buồn nôn và nôn; giữ nước trong cơ thể; huyết áp cao; đường huyết cao; lú lẫn; co giật; hôn mê.