Hội nghị bao gồm 7 phiên báo cáo về những tiến bộ mới nhất trong can thiệp tim mạch, thay van động mạch chủ, cấp cứu sốc tim…, thảo luận về kỹ thuật nong bóng phủ thuốc trong điều trị bệnh động mạch vành và tường thuật trực tiếp ca can thiệp động mạch vành thành công tại BVĐK Hồng Ngọc có ứng dụng kỹ thuật nong bóng phủ thuốc kết hợp phần mềm đo phân suất dự trữ lưu lượng vành không xâm lấn vFFR (vessel Fractional Flow Reserve) lần đầu tiên tại miền Bắc.
Phát biểu khai mạc hội nghị, GS.TS Phạm Mạnh Hùng – Viện trưởng Viện tim mạch Việt Nam, Phó chủ tịch Hội tim mạch Việt Nam – cho biết bệnh lý tim mạch hiện là nguyên nhân gây ra 36% ca tử vong tại Việt Nam. Với việc Việt Nam đã có tới 135 trung tâm can thiệp tim mạch cùng những tiến bộ khoa học trong phát minh, sản xuất thuốc và điều trị, can thiệp, số lượng bệnh nhân được cấp cứu thành công trong những năm qua đã tăng lên đáng kể.
“Tim mạch là lĩnh vực đòi hỏi sự chính xác và cập nhật liên tục. Hội nghị ‘Những tiến bộ trong can thiệp tim mạch’ đã mang tới những báo cáo rất nổi bật, trong đó có báo cáo về can thiệp thay van cấu trúc, sử dụng nong bóng phủ thuốc ở bệnh nhân có bệnh động mạch vành hoặc nguy cơ chảy máu cao, sử dụng AI để đo đạc sinh lý dòng chảy qua đường ống thông… Tôi hy vọng rằng, thông qua các phiên thảo luận và bài trình bày của các chuyên gia đầu ngành, chúng ta sẽ cùng nhau thúc đẩy sự phát triển của y học tim mạch, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân”, GS Hùng cho hay.
Ngay sau đó, phiên thảo luận về kỹ thuật nong bóng phủ thuốc trong điều trị bệnh mạch vành cho đối tượng có nguy cơ chảy máu cao đã được PGS. TS. Lee Joo Myung – Viện Tim mạch Đột quỵ, Trung tâm Y tế Samsung, Trường Y khoa Đại học Sungkyunkwan, Seoul, Hàn Quốc – trình bày đã giới thiệu một xu hướng mới trong điều trị hẹp mạch vành.
Khác với stent truyền thống, bóng phủ thuốc không cần khung giá đỡ kim loại, nên không để lại thiết bị nào trong lòng mạch. Điều này giúp quá trình nội mạc hóa diễn ra nhanh hơn và giảm nguy cơ huyết khối cấp. Ngoài ra, bệnh nhân chỉ cần sử dụng thuốc chống đông máu ngắn hạn sau thủ thuật, giảm nguy cơ chảy máu.
GS.TS.BS Ying-Hwa Chen, Giám đốc Bệnh Tim Cấu trúc, Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện Đa khoa Cựu chiến binh Đài Bắc (Trung Quốc) đã trình bày báo cáo về kỹ thuật Cusp Overlap giảm thiểu rối loạn dẫn truyền sau thay van động mạch chủ qua da. Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu các biến chứng dẫn truyền, kỹ thuật Cusp Overlap còn giúp xác định vị trí của dây dẫn trong tâm thất trái, mức độ căng của dây, tối ưu việc đặt van dễ hơn…
Ths.BSCK II Lý Đức Ngọc – Phó Trưởng khoa Nội Tim mạch người lớn, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E đã có báo cáo cập nhật chẩn đoán hội chứng vành cấp giúp phát hiện sớm và chẩn đoán chính xác bệnh, tối ưu hóa điều trị, cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân.
Sau các phiên thảo luận về hội chứng động mạch chủ cấp, sốc tim, TS. BS Trịnh Tú Tâm – Trưởng khoa Chẩn đoán Hình ảnh – Điện quang Can thiệp, BVĐK Hồng Ngọc – đã trình bày bài nói về chủ đề cấp cứu vỡ giả phình động mạch cảnh do di chứng sau xạ trị bằng phương pháp can thiệp nội mạch dựa trên một ca cấp cứu mức báo động đỏ tại BVĐK Hồng Ngọc.
Ngay trong buổi sáng, hội nghị đã được xem trực tiếp ca can thiệp ứng dụng kỹ thuật nong bóng phủ thuốc mạch vành bị hẹp nặng cho bệnh nhân 65 tuổi có nguy cơ chảy máu cao bằng kỹ thuật nong bóng phủ thuốc, kết hợp với phần mềm vFFR đo phân suất dự trữ lưu lượng vành không xâm lấn của Ths.BS Nguyễn Văn Hải – Trưởng khoa Tim mạch – Can thiệp Tim mạch BVĐK Hồng Ngọc.
Đây là lần đầu tiên vFFR được triển khai tại miền Bắc, giúp xác định chính xác vị trí tổn thương mà không cần đặt thiết bị vào cơ thể, tối ưu hóa quy trình, rút ngắn thời gian điều trị. Ca can thiệp diễn ra chỉ trong vòng 30 phút, thực hiện thành công và bệnh nhân tỉnh táo ngay sau can thiệp.
Đánh giá về hiệu quả ứng dụng kỹ thuật nong bóng phủ thuốc kết hợp phần mềm đo phân suất dự trữ lưu lượng vành không xâm lấn vFFR khi can thiệp tim mạch cho nhóm bệnh nhân nhạy cảm , ThS.BS Nguyễn Văn Hải – Trưởng khoa Tim mạch – Tim mạch can thiệp BVĐK Hồng Ngọc – cho biết khắc phục được nhược điểm đặt quá nhiều stent cùng 1 mạch vành hoặc đặt vào mạch vành quá nhỏ gây nguy cơ tắc mạch cao, hay giảm bớt sử dụng thuốc hậu phẫu thuật.
“Phương pháp này vừa giảm bớt chi phí cho bệnh nhân, vừa giảm bớt nguy cơ do thủ thuật gây nên và tiết kiệm tổng thời gian cho thủ thuật”, bác sĩ Hải cho hay.