Ngày 16/9, báo Dân trí phối hợp cùng Hệ thống Y tế Vinmec tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Các bệnh liên quan đến dị ứng đường thở”.

Nhà báo Lê Bảo Trung, Trưởng ban Khoa học Công nghệ báo Dân trí, tặng hoa tới 2 bác sĩ tới từ Bệnh viện Vinmec Times City: PGS.TS.BS Nguyễn Văn Đĩnh (thứ hai bên phải) và BS Nguyễn Duy Bộ (Ảnh: Mạnh Quân).
Tỷ lệ mắc các bệnh dị ứng ngày càng gia tăng
PGS.TS.BS Nguyễn Văn Đĩnh, Giám đốc Trung tâm Dị ứng – Miễn dịch Lâm sàng, Bệnh viện Vinmec Times City, cho biết, dị ứng đường thở bao gồm toàn bộ những vấn đề, những triệu chứng như hắt hơi, chảy mũi, ngứa mũi, thậm chí là khó thở. Những bệnh lý này bao gồm viêm mũi dị ứng, hen phế quản…
Tại Việt Nam, hiện có khoảng 5 triệu người mắc bệnh hen và khoảng 20 triệu người mắc viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng liên quan đến các dị nguyên đường hô hấp. Điều này cho thấy gánh nặng về bệnh cũng như chi phí y tế là rất lớn.
Nguyên nhân hàng đầu gây ra các tình trạng dị ứng này chính là các dị nguyên đường hô hấp, có thể chia thành hai nhóm: dị nguyên trong nhà và dị nguyên ngoài trời.

Hai chuyên gia chia sẻ tại buổi toạ đàm (Ảnh: Mạnh Quân).
Trong nhà, nguyên nhân phổ biến nhất là bụi nhà. Theo thống kê, khoảng 50% bệnh nhân hen có phản ứng nhạy cảm với bụi nhà. Với bệnh nhân viêm mũi dị ứng thì tỷ lệ này lên đến khoảng 80%. Ngoài ra còn có các dị nguyên khác như nấm mốc, gián, mạt nhà…
Ở nhóm dị nguyên ngoài trời thường gặp nhất là phấn hoa, phấn cỏ, nấm mốc phát triển trên cây cối, đặc biệt là ở các cành lá đã chết.
Chính sự hiện diện rộng rãi và gia tăng của các dị nguyên này là lý do khiến tỷ lệ mắc các bệnh lý dị ứng nói chung và dị ứng đường thở nói riêng ngày càng tăng.
Theo Bác sĩ Nguyễn Duy Bộ, bác sĩ hô hấp dị ứng nhi khoa, Trung tâm Dị ứng – Miễn dịch Lâm sàng, Bệnh viện Vinmec Times City, bệnh nếu không được điều trị sẽ gây ra các triệu chứng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày.

Hàng triệu người Việt mắc các bệnh đường thở, gây ra gánh nặng về bệnh cũng như chi phí y tế rất lớn (Ảnh: Getty).
Về lâu dài, nếu tình trạng viêm xảy ra ở mũi thì phần lớn chỉ dừng lại ở mức độ gây khó chịu, ngứa ngáy. Nhưng nếu viêm xảy ra trong đường thở, đặc biệt là trong phế quản, và viêm đi viêm lại nhiều lần mà không được kiểm soát tốt, thì sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng hơn.
Đường thở trong phế quản bị viêm kéo dài sẽ có nguy cơ bị xơ hóa, hẹp lại, dẫn đến tắc nghẽn. Khi đó, bệnh nhân, ví dụ một em bé mắc hen phế quản, ban đầu chỉ lên cơn hen thỉnh thoảng, nhưng vì điều trị viêm không tốt, tình trạng sẽ tiến triển thành tắc nghẽn cố định, gây khó thở thường xuyên. Đường thở càng ngày càng bị tổn thương nặng hơn.
“Vì thế, với bất kỳ bệnh lý nào có yếu tố viêm, đặc biệt là các bệnh dị ứng đường thở, chúng ta cần phải chẩn đoán sớm, điều trị và kiểm soát tốt tình trạng viêm để tránh biến chứng như xơ hóa đường thở hoặc tổn thương thị lực không hồi phục”, BS Bộ nhấn mạnh.

BS Nguyễn Duy Bộ chia sẻ tại tọa đàm (Ảnh: Mạnh Quân)
Các phương pháp điều trị hiện đại, tiên tiến kiểm soát bệnh
Theo PGS Đĩnh, việc điều trị dựa vào hai yếu tố chính: Chẩn đoán mức độ bệnh và xác định nguyên nhân gây bệnh, từ đó sẽ có hai hướng tiếp cận điều trị song song.
Thứ nhất là điều trị theo mức độ bệnh, sử dụng các phác đồ điều trị thường quy nhằm giảm đáp ứng miễn dịch quá mức của cơ thể. Các phương pháp bao gồm dùng thuốc chống viêm, thuốc điều trị tại chỗ như thuốc xịt, thuốc hít, áp dụng cho các bệnh như viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng và hen phế quản. Ngoài ra, còn có các phương pháp điều trị hiện đại như điều trị đích (điều trị điểm) hay còn gọi là liệu pháp sinh học.
“Nếu điều trị thường quy giống như việc dùng một chiếc xe ủi để phá cổng đi vào nhà thì điều trị đích giống như có chìa khóa riêng, mở cửa đúng chỗ, đi vào nhà một cách nhẹ nhàng. Chính vì vậy, điều trị đích sẽ giảm đáng kể tác dụng không mong muốn, đồng thời hiệu quả điều trị cũng cao hơn”, PGS Đĩnh nói.

Theo PGS Nguyễn Văn Đĩnh, điều trị đích có thể giảm các tác dụng phụ không mong muốn, hiệu quả điều trị lại cao hơn (Ảnh: Mạnh Quân).
Điều trị đích thường được chỉ định trong các trường hợp bệnh nặng, khó kiểm soát, không đáp ứng với điều trị thường quy, hoặc với những bệnh nhân phải sử dụng corticosteroid đường toàn thân, thuốc ức chế miễn dịch, những loại thuốc có thể làm tăng nguy cơ tác dụng phụ nghiêm trọng.
Do đó, liệu pháp sinh học là một phương pháp mới, hiện đại, an toàn và cá thể hóa trong điều trị các bệnh dị ứng đường thở.
Thứ hai là điều trị theo nguyên nhân, dự phòng căn nguyên gây bệnh. Cụ thể tránh tiếp xúc với dị nguyên bằng cách kiểm soát môi trường sống (lọc không khí, đeo khẩu trang, tránh mùa phấn hoa… ), liệu pháp vaccine miễn dịch đặc hiệu (giải pháp dự phòng từ bên trong).
Liệu pháp miễn dịch đặc hiệu là đưa một lượng nhỏ dị nguyên vào cơ thể để giúp hệ miễn dịch làm quen dần, từ đó thay đổi tiến trình bệnh lý. Đây là phương pháp điều trị tận gốc, không chỉ giúp kiểm soát triệu chứng hiện tại mà còn giảm nguy cơ xuất hiện các dị ứng mới, ngăn bệnh tiến triển nặng hơn.
Theo ông, điều quan trọng là chúng ta cần xác định xem nguyên nhân chính nào gây ra các rối loạn dị ứng trong cơ thể. Khi biết được nguyên nhân, chúng ta sẽ có cách loại bỏ hoặc hạn chế tối đa những phản ứng không mong muốn xảy ra trên cơ thể. Chúng ta cũng cần biết tình trạng phản ứng dị ứng của cơ thể đang ở mức độ nào nhẹ, trung bình hay nặng để từ đó có thái độ ứng xử phù hợp, lựa chọn được phương pháp tiếp cận điều trị hiệu quả, an toàn.
Chung quan điểm, BS Bộ, cho biết, nếu đã xác định được dị nguyên gây bệnh là lông chó, lông mèo hay mạt nhà, thì việc đầu tiên cần làm là hạn chế tiếp xúc với các dị nguyên đó nhằm giảm nguy cơ gây ra tình trạng viêm trong đường thở.
Tuy nhiên, việc tránh tuyệt đối các dị nguyên đường hô hấp trong không khí là rất khó. Chúng có thể tồn tại lơ lửng trong môi trường sống và ít nhiều vẫn có thể xâm nhập vào cơ thể từ những nguồn không kiểm soát được.
Trong trường hợp đó, điều quan trọng là người bệnh cần được khám và theo dõi bởi các bác sĩ chuyên khoa, để đánh giá xem việc tránh tiếp xúc với dị nguyên đã đạt hiệu quả đến mức độ nào, và phản ứng viêm trong đường thở còn tồn tại hay không.
Chia sẻ về liệu pháp miễn dịch đặc biệt SIT còn được gọi là điều trị miễn dịch đặc hiệu, BS Bộ cho biết, phương pháp này điều trị vào đúng “gốc rễ” của bệnh chứ không chỉ điều trị triệu chứng nữa. Nó cho phép bác sĩ điều trị ngay từ nguyên nhân sinh ra tình trạng viêm, giúp tác động sâu hơn và kiểm soát bệnh lâu dài hơn.
Phương pháp này áp dụng cho các bệnh nhân có biểu hiện rõ ràng như hen phế quản, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng, và xác định được nguyên nhân là do dị ứng, ví dụ như dị ứng với mạt nhà (bọ nhà), một dị nguyên rất phổ biến tại Việt Nam.
Thông thường, khi hít phải chất gây dị ứng từ mạt nhà, cơ thể sẽ tạo ra phản ứng viêm trong đường thở.
Nhưng nếu thay vì để cơ thể tiếp xúc một cách tự nhiên như vậy, chúng ta “huấn luyện” hệ miễn dịch bằng cách cho tiếp xúc chủ động, có kiểm soát thông qua thuốc ngậm dưới lưỡi hoặc thuốc tiêm được chiết xuất từ chính dị nguyên đã qua xử lý. Như vậy, cơ thể sẽ tạo ra kháng thể “tốt”, giúp trung hòa chất dị ứng, từ đó giảm phản ứng viêm và giảm triệu chứng rõ rệt.
Quan trọng hơn, liệu pháp này không chỉ điều trị triệu chứng hiện tại, mà còn giúp ngăn ngừa bệnh diễn tiến nặng hơn về sau.
“Với những trường hợp triệu chứng viêm mũi dị ứng hoặc viêm kết mạc dị ứng kéo dài, dai dẳng, chúng tôi sẽ cân nhắc chỉ định liệu pháp miễn dịch đặc hiệu này. Chỉ sau khoảng 3-4 tháng, chúng tôi đã có thể nhận thấy hiệu quả rõ rệt. Liệu trình điều trị thường kéo dài 2-3 năm, và hiệu quả sẽ duy trì rất tốt về lâu dài”, BS Bộ nhấn mạnh.
Tương tự, với bệnh nhân hen phế quản, nếu đã kiểm soát được hen ổn định, không còn cơn cấp nặng, thì đây là giai đoạn “vàng” để bắt đầu điều trị miễn dịch đặc hiệu, giúp giảm viêm đường thở, và hạn chế biến chứng lâu dài của hen.
Theo PGS Đĩnh, Vinmec là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam được Bộ Y tế cho phép triển khai chính thức các liệu pháp sinh học cho bệnh nhân hen phế quản. Một số loại thuốc sinh học thế hệ mới, như Omalizumab và Dupilumab đang được sử dụng. Các thuốc này tác động trực tiếp vào cơ chế viêm dị ứng ở đường thở, ức chế phản ứng viêm và giảm co thắt phế quản.
Nhờ đó, giúp phục hồi chức năng hô hấp, giảm triệu chứng khó thở, giảm cơn hen và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.
Điểm đặc biệt của các thuốc sinh học là hiệu quả cao, an toàn và cá thể hóa theo từng kiểu hình hen, phù hợp cho những bệnh nhân hen phế quản nặng, khó kiểm soát hoặc không đáp ứng với điều trị thông thường.
Đặc biệt, Vinmec hiện là một trong 103 trung tâm trên toàn cầu, được Tổ chức Dị ứng Thế giới công nhận là Trung tâm xuất sắc. Đây là một minh chứng rất rõ ràng cho thấy chuyên ngành dị ứng miễn dịch tại Việt Nam đã và đang từng bước tiếp cận với các tiêu chuẩn điều trị và nghiên cứu hàng đầu thế giới.
“Đây là bước tiến quan trọng, mở ra điều kiện rất tốt để người bệnh tại Việt Nam có thể tiếp cận với các phương pháp điều trị và kiểm soát bệnh lý dị ứng – miễn dịch tiên tiến nhất, theo đúng chuẩn quốc tế”, PGS Đĩnh nhấn mạnh.