Sự thật về câu chuyện 'Văn Cao tức giận, đuổi Phạm Duy đi'


LTS: Văn Cao là nghệ sĩ đa tài, thể hiện trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật (nhạc, họa, thơ). Sự nghiệp của ông trải dài suốt thế kỷ XX và gắn bó chặt chẽ với lịch sử gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn của đất nước. Vì vậy mà cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao trải qua nhiều khúc quanh, nhiều bước ngoặt, nhiều thăng trầm của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nghệ thuật hiện đại. Nhưng ở thời kỳ nào, nhân cách nghệ sĩ và tài năng của Văn Cao cũng được ghi nhận.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (15/11/1923-15/11/2023), VietNamNet xin giới thiệu bài viết của hoạ sĩ Văn Thao – con trai nhạc sĩ Văn Cao kể về mối quan hệ giữa cha mình và nhạc sĩ Phạm Duy.

Mùa xuân năm 1944, Phạm Duy theo gánh hát cải lương Đức Huy Charlot Miều mới được thành lập và xuống Hải Phòng biểu diễn ra mắt lần đầu tiên. Trong gánh hát, lúc đầu Phạm Duy chỉ làm những công việc tạp vụ: dọn phông màn, bán vé, xếp chỗ ngồi, vẽ quảng cáo…

Sau một vài đêm diễn, phát hiện Phạm Duy có một giọng hát hay, ông chủ gánh hát bèn bổ sung tiết mục cho Phạm Duy ra hát lấp chỗ trống trong thời gian thay cảnh.

Lần đầu được đứng trên sân khấu, với phong cách cách lãng tử và một giọng ca bẩm sinh ấm áp, qua hai tác phẩm: Bản đàn xuân của Lê Thương, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong, Phạm Duy đã gây được ấn tượng trong lòng người xem. Qua một số người bạn ở Hải Phòng, Phạm Duy biết tới những sáng tác của Văn Cao. Những ngày sau đó, bài hát Buồn tàn thu của Văn Cao đã được Phạm Duy biểu diễn và được khán giả Hải Phòng ghi nhận.

w anh123 2 874 1.jpeg
Nhạc sĩ Văn Thao.

Khi gặp Văn Cao, Phạm Duy chỉ là một ca sĩ mới vào nghề, có một sáng tác đầu tay chưa được ai biết là Cô hái mơ (1942), phổ thơ Nguyễn Bính. Trong khi đó, Văn Cao đã là một nhạc sĩ nổi tiếng Hải Phòng trong nhóm Đồng Vọng với hàng loạt ca khúc: Buồn tàn thu (1939), Thiên Thai (1941), Trương Chi (1942), Suối mơ (1942), Thu cô liêu (1942), Bến xuân (1943), Cung đàn xưa (1943)… Cho nên không có chuyện “một vài bài hát như Bến Xuân, Suối mơ, Đàn chim Việt… Văn Cao sáng tác cùng với Phạm Duy” như một số ấn phẩm âm nhạc đã đăng. Qua lời kể của cha, tôi biết rằng: “Không có chuyện Văn Cao sáng tác chung với Phạm Duy”.

Cuộc gặp gỡ lần đầu mới được “dăm bữa, nửa tháng” chưa đủ để Văn Cao hiểu rõ về Phạm Duy. Tuy nhiên, Văn Cao đã nhìn thấy trước được “tiềm năng âm nhạc” trong con người Phạm Duy, vì thế ông động viên và khuyên “mày nên đi vào sáng tác…”. Tình bạn giữa hai người bắt đầu từ những ngày đó

Còn Phạm Duy, trong hồi ký của mình, ông đã viết: “Trong thời gian ở Hải Phòng… tôi có may mắn gặp một người bạn. Người đó là Văn Cao”.

Sau gần 2 tháng biểu diễn tại Hải Phòng, Phạm Duy tạm biệt Văn Cao cùng gánh hát Đức Huy tiếp tục cuộc hành trình từ Bắc vào Nam. Trong hành trang của mình, Phạm Duy đã có thêm một số tác phẩm của Văn Cao.

Sau hai năm gắn bó với gánh hát Đức Huy, biểu diễn khắp các tỉnh ở miền Nam trung tuần tháng 6/1945, Phạm Duy rời bỏ gánh hát để trở thành ca sĩ tự do tại Sài Gòn. Cuối tháng 10/1945, Phạm Duy ra Hà Nội. Gặp lại Văn Cao, mới biết bạn mình là tác giả của bài Tiến quân ca và một loạt ca khúc cách mạng khác như: Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam

Gặp Văn Cao và bạn bè cùng giới tại một số tụ điểm âm nhạc tại Hà Nội lúc đó, Phạm Duy đã là một ca sĩ thành danh và cũng đã có những sáng tác ban đầu được ghi nhận như: Chinh phụ ca, Cây đàn bỏ quên, Gươm tráng sĩ, Khối tình Trương Chi. Tuy nhiên với Văn Cao, Phạm Duy đã phải cảm phục thốt lên: “Văn Cao thật là một con người tài hoa. Nhạc tình của nó hay, nhạc hùng của nó cũng hay không kém như: Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam…”.

Đầu năm 1946, Phạm Duy gia nhập đội quân Nam tiến vào chiến trường Miền Nam, chiến đấu tại mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu. Cuối tháng 10/1946, Phạm Duy lại trở ra Hà Nội, lang thang và hát tại một số phòng trà. Ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, Văn Cao được giao nhiệm vụ tổ chức đưa một số các văn nghệ sĩ tản cư đi kháng chiến. Văn Cao gặp Phạm Duy tại một quán cà phê ở Phố Huế, ông trao cho Phạm Duy một tấm giấy, giới thiệu Phạm Duy về công tác tại Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam tại chùa Trầm. Được “dăm bữa, nửa tháng”, Phạm Duy lại bỏ đài để gia nhập đoàn kịch Giải Phóng của họa sĩ Phạm Văn Đôn.

Đầu tháng 5/1947, đoàn kịch Giải Phóng lên đến Lao Kay, Phạm Duy gặp lại Văn Cao. Văn Cao lên Lao Kay từ đầu năm 1947, phụ trách Đội điều tra Công an Liên khu X. Ông mở một quán ca nhạc, có tên là quán Biên Thùy bên kia cầu Cốc Lếu để làm vỏ bọc cho những hoạt động của mình. 

Với uy tín của mình Văn Cao đã thành lập được một ban nhạc, tập hợp nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ có tên tuổi từ Hà Nội, Hải Phòng lên biểu diễn phục vụ khách hàng thâu đêm. Gặp Văn Cao tại quán Biên Thùy với một không gian âm nhạc ấm cúng, lãng mạn, Phạm Duy liền bỏ đoàn kịch Giải Phóng và rủ luôn cả ca sĩ Mai Khanh cùng nhạc sĩ Ngọc Bích ở lại với Văn Cao.

Gặp Văn Cao lần này, Phạm Duy không chỉ là ca sĩ mà còn là một nhạc sĩ đã thành danh. Văn Cao coi Phạm Duy là một người bạn đồng nghiệp. Hai người đã có thời gian để bàn bạc, trao đổi với nhau nhiều về nghệ thuật, hiểu rõ về nhau hơn, vì thế, ông đã thẳng thắn khuyên Phạm Duy: “Thế mạnh của mày là ở dân ca. Hãy khai thác và đưa chất liệu dân ca vào những sáng tác. Tao tin mày sẽ thành công. Cần tìm cho mình một con đường, một phong cách riêng…”.

Sau cuộc gặp gỡ này, hàng loạt những ca khúc của Phạm Duy đã ra đời. Năm năm đi theo kháng chiến, với hơn 40 ca khúc, Phạm Duy đã trở thành một trong những nhạc sĩ nổi tiếng, có nhiều đóng góp trong giai đoạn đó. Có thể kể ra một số bài điển hình như: Nhạc tuổi xanh, Gánh lúa, Nương chiều, Bà mẹ quê, Phố buồn, Bà mẹ Gio Linh, Bên cầu biên giới, Tiếng đàn tôi, Quê nghèo, Về miền Trung…

Phạm Duy hát tại quán Biên Thùy của Văn Cao gần ba tháng thì lại cùng Ngọc Bích chia tay Văn Cao ra đi. Cuộc chia tay giữa hai người lần này không vui vẻ lắm vì trong thời gian này Phạm Duy “phải lòng” một cô gái nhảy xinh đẹp là nhân viên hoạt động trong đội điều tra của Văn Cao. Mối quan hệ này đã ảnh hưởng không tốt đến công việc của Văn Cao. Không chấp nhận được điều đó, Văn Cao tức giận, đuổi Phạm Duy đi. Trước khi dứt tình ra đi, Phạm Duy đã để lại cho người đẹp nơi biên ải một tình khúc nổi tiếng là bài Bên cầu biên giới (trong cuốn Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Tỵ có viết về sự kiện này).

Cuối năm 1949, tại Thanh Hóa, Phạm Duy lấy vợ là ca sĩ Thái Hằng, em nhạc sĩ Phạm Đình Viêm. Giữa năm 1950, vợ chồng Phạm Duy được triệu tập lên Việt Bắc dự Đại hội Văn nghệ. Phạm Duy gặp lại Văn Cao. Đây là cuộc gặp cuối cùng giữa hai người để rồi họ xa nhau mãi mãi…

Sau Đại hội Văn nghệ, Phạm Duy trở về Thanh Hóa. Ngày 1/5/1951, Phạm Duy cùng gia đình từ bỏ kháng chiến, “dinh tê” về Hà Nội, rồi vào Sài Gòn sinh sống.

Tuy mỗi người ở một phương trời khác nhau nhưng Phạm Duy luôn kính trọng Văn Cao, coi ông là một nhạc sĩ lớn có nhiều ảnh hưởng trong sự nghiệp sáng tác của mình. Phạm Duy là người có công truyền bá các nhạc phẩm của Văn Cao đến với công chúng trên mọi miền đất nước. Nhiều tác phẩm của Văn Cao được ông đem ra phân tích và ca ngợi.

Đặc biệt với bài Trường ca Sông Lô ông đã viết: “Trường ca Sông Lô là một tác phẩm vĩ đại. Thằng bạn này vẫn là kẻ khai phá. Nó là cha đẻ của loại trường ca. Về hình thức, bài của nó chẳng thua gì bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây phương”. 

Từ những năm đầu của thập kỷ 1990, đã có tin đồn về việc Phạm Duy xin về nước, đến năm 1994 thì thấy bà Thái Hằng (vợ Phạm Duy) về và đến thăm cha tôi. Khi đó gia đình tôi mới biết tin Phạm Duy xin về nước là chính xác. Sau đó ít lâu, một cán bộ cấp cao bên ngành an ninh đã đến gặp cha tôi hỏi ý kiến. Cha tôi nói: “Phạm Duy là một nhạc sĩ có tên tuổi, có nhiều đóng góp cho nền âm nhạc nước ta. Không thể phủ nhận được những tác phẩm của ông ta trong nửa đầu của cuộc kháng chiến. Nó là thằng bạn cũ của tôi. Tôi hiểu nó. Giờ đây Phạm Duy đã gần 80 tuổi rồi, còn làm gì được nữa đâu…”.

Đầu năm 2000, Phạm Duy về nước. Cha tôi không còn nữa. Ông tới nhà thăm mẹ tôi cùng gia đình rồi ra mộ thắp hương cho bố tôi.

Những ngày ở Hà Nội ông thường đến thăm và trò chuyện với vợ chồng tôi ở căn buồng nhỏ tại 102 Lê Duẩn. Ông vui vẻ cho tôi biết nhiều sự kiện trong cuộc đời của ông và cha tôi. Ông không giấu tôi bất cứ chuyện gì kể cả những chuyện riêng tư của ông.

Ông nói: “… Tao luôn ganh đua với bố mày. Bố mày có Thiên Thai, tao cũng có Tiếng sáo Thiên Thai. Bố mày có Trương Chi, tao cũng có Khối tình Trương Chi. Bố mày có Trường ca Sông Lô, tao cũng có Tiếng hát Sông Lô. Bố mày giỏi quá. Tao không thể bằng được”. Rồi ông tặng tôi cuốn hồi ký của ông. Qua hồi ký của ông cùng với cuộc gặp này, khiến tôi hiểu ra một điều – không giống nhiều người khác, Phạm Duy không có tính đố kỵ và viết hồi ký rất trung thực.

Còn Văn Cao, đối với Phạm Duy ông đã từng khẳng định: “Muốn nói gì thì nói, Phạm Duy vẫn là một nhạc sĩ lớn. Nó là người có công trong việc sử dụng các chất liệu dân ca đưa vào những sáng tác của mình một cách sáng tạo, mở ra một con đường cho các nhạc sĩ sau này đi theo. Không thể phủ định nó trong lịch sử của nền âm nhạc Việt Nam”.

Văn Thao

Văn Cao, một tiếng thơ vang vang cả lòng cả đáy

Văn Cao, một tiếng thơ vang vang cả lòng cả đáy

Ở địa hạt thi ca, Văn Cao viết không nhiều, nhưng là những thi phẩm vừa in dấu lịch sử chuyển động suốt một đời người, dọc theo thế kỷ, vừa nhấn thật sâu vào tư tưởng và tâm hồn để biến nó thành ‘Một tiếng thơ vang vang cả lòng cả đáy’.

Nhạc sĩ Văn Cao, người ám ảnh hội họa

Nhạc sĩ Văn Cao, người ám ảnh hội họa

Những bức tranh sơn dầu thể hiện bằng hình thức mới: ‘Nửa đêm’, ‘Cô gái dậy thì’, ‘Sám hối’… đã đưa nhạc sĩ Văn Cao trở thành “người ám ảnh hội họa” – như lời nhận xét của nhà phê bình Thái Bá Vân.


Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *